TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHĂN NUÔI THÁNG 7/2016
Theo Bộ NN&PTNT, chăn nuôi cả nước trong 7 tháng đầu năm khá ổn định mặc dù thời tiết nắng nóng kéo dài, nền nhiệt tăng cao nhưng người chăn nuôi đã chủ động chống nóng cho đàn vật nuôi đồng thời tiêm phòng vắc xin đầy đủ theo hướng dẫn của cán bộ thú y. Theo Tổng cục Thống kê ước tính tổng số bò cả nước tháng 7 năm 2016 tăng khoảng 1-1,5% so với cùng kỳ năm 2015; Tổng số lợn tăng khoảng 2,7-3,7% so với cùng kỳ năm 2015; Tổng số gia cầm tăng khoảng 3- 3,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Chăn nuôi trâu bò: Trong tháng, mặc dù hời tiết nắng nóng kéo dài, nền nhiệt tăng cao nhưng người chăn nuôi đã chủ động chống nóng bằng nhiều hình thức khác nhau nên số đàn trâu, bò vẫn phát triển ổn dịnh. Theo báo cáo của TCTK, ước tính tổng số trâu cả nước tháng 7/2016 giảm 0,5-1%, tuy nhiên chăn nuôi bò lại phát triển hơn do thị trường tiêu thụ tốt, ước tính tổng số bò tăng từ 1-1,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Chăn nuôi lợn: Chăn nuôi lợn vẫn trên đà phát triển khá tốt do dịch lợn tai xanh không xảy ra, giá thịt lợn hơi vẫn giữ mức ổn định, duy trì ở mức có lợi cho người nuôi. Ước tính tổng số lợn cả nước tháng 7/ 2016 tăng khoảng 2,7-3,7% so với cùng kỳ năm 2015.
Chăn nuôi gia cầm: Đàn gia cầm cả nước phát triển tương đối thuận lợi do không có dịch bệnh xảy ra. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tháng 7/2016 tăng khoảng 3- 3,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Dịch bệnh: Theo Cục Thú y, tính đến thời điểm 26/07/2016, tình hình dịch bệnh trong cả nước diễn biến như sau:
1. Dịch Cúm gia cầm
Hiện nay, cả nước không có dịch Cúm gia cầm.
Trong ngày, không có báo cáo ổ dịch mới phát sinh từ các địa phương.
Hiện nay, cả nước không có dịch LMLM.
Trong ngày, không có báo cáo ổ dịch mới phát sinh từ các địa phương.
Hiện nay, cả nước không có dịch Tai xanh.
Cúm gia cầm: Do diễn biến phức tạp của thời tiết nên nguy cơ dịch phát sinh và lây lan trong thời gian tới là rất cao; các địa phương cần chủ động trong công tác phòng, chống Cúm gia cầm độc lực cao H5N1, H5N6 và một số chủng vi rút cúm có thể lây sang người như vi rút H7N9; tăng cường kiểm soát và xử lý nghiêm việc nhập lậu gia cầm, giám sát chặt địa bàn để phát hiện và xử lý ổ dịch kịp thời.
Các địa phương căn cứ tình hình dịch bệnh trên địa bàn, thông báo của Cục Thú y về lưu hành vi rút Cúm gia cầm, Lở mồm long móng, Tai xanh và hướng dẫn sử dụng vắc xin năm 2016 (văn bản số 262/TY-DT ngày 22/02/2016) để tổ chức mua đúng loại vắc xin phòng, chống dịch nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Giá thu mua lợn hơi tại các tỉnh phía Nam trong tháng 7/2016 nhìn chung diễn biến theo xu hướng giảm. Tại một số địa phương như Vĩnh Long, An Giang, giá đã giảm 500 đ/kg và 1.000 đ/kg so với hồi đầu tháng và hiện có mức giá lần lượt là 42.500 đ/kg và 44.000 đ/kg.
Tại Đồng Nai, giá lợn hơi bán ra tại các trại hiện chỉ còn 42.000 – 43.000 đ/kg, giảm 5.000-6.000 đ/kg so với mức giá cuối tháng trước. Nếu so với mức giá “đỉnh” vào tháng 4 và đầu tháng 5-2016, giá lợn hơi trên địa bàn Đồng Nai đã giảm 12.000-13.000 đ/kg, tương đương mức giảm hơn 23%. Nguyên nhân là do lượng lợn tồn ở Trung Quốc còn nhiều nên nước này hạn chế nhập. Trong khi đó, Đồng Nai cung cấp hơn 50% sản lượng lợn hơi Việt Nam sang thị trường Trung Quốc nên giá lợn bị ảnh hưởng ngay.
Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam
Xem chi tiết tại: http://channuoivietnam.com/bieu-2/
TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU
Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu ước tính trong tháng 7/2016 ước đạt 363 triệu USD, nâng tổng giá trị nhập khẩu mặt hàng này 7 tháng đầu năm 2016 đạt 1,85 triệu USD, giảm 4,6% so với cùng kỳ năm 2015. Ba thị trường nhập khẩu chính của nhóm mặt hàng này trong 6 tháng đầu năm 2016 là Achentina, Hoa Kỳ và Trung Quốc, chiếm thị phần lần lượt là 45,1%, 10,3% và 7,2%. Các thị trường có giá trị mạnh là Áo (tăng 85,3%), TVQ Arap Thống Nhất (tăng 37,1%), Indonesia (tăng 14,3%) và Achentina (tăng 5,3%). Các thị trường còn lại đều có giá trị nhập khẩu giảm mạnh là Hoa Kỳ (47,7%), Brazil (giảm 44,8%), Thái Lan (41,2%), Ấn Độ (35,4%), Trung Quốc (1,5%) và Đài Loan (giảm 0,7%).
Đậu tương:
Ước khối lượng đậu tương nhập khẩu trong tháng 7/2016 đạt 44 nghìn tấn với giá trị 20 triệu USD, đưa tổng khối lượng đậu tương nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2016 đạt 808 nghìn tấn với giá trị đạt 329 triệu USD, giảm 17,3% về khối lượng và giảm 27,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Ngô: Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu trong tháng 7/2016 đạt 474 nghìn tấn với giá trị đạt 96 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu ngô 7 tháng đầu năm 2016 đạt 3,8 triệu tấn với giá trị đạt 747 triệu USD, tăng 5,6% về khối lượng nhưng lại giảm 9,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Trong 6 tháng đầu năm 2016, Braxin và Achentina là hai thị trường nhập khẩu chính của mặt hàng này, chiếm lần lượt là 59,5% và 35,5% tổng giá trị nhập khẩu của mặt hàng. Thị trường có giá trị tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2015 là thị trường Lào tăng 29,1% về khối lượng và tăng 26,1% về giá trị. Thị trường có giá trị giảm mạnh là Ấn Độ, giảm tới 99,5% về khối lượng và giảm 94,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Lúa mì: Ước tính khối lượng nhập khẩu lúa mì trong tháng 7/2016 đạt 102 nghìn tấn với giá trị đạt 23 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu lúa mì 7 tháng đầu năm 2016 đạt 1,84 triệu tấn với giá trị đạt 398 triệu USD, tăng 37,6% về khối lượng và tăng 10,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Thị trường nhập khẩu lúa mì chính trong 6 tháng đầu năm 2016 là Úc, chiếm tới 50,5% thị phần và tăng khoảng 19,5% về khối lượng nhưng lại giảm 1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Tiếp theo là Brazil chiếm 17% tổng giá trị nhập khẩu của mặt hàng này, với tổng khối lượng nhập khẩu đạt 333,6 nghìn tấn và 63,76 triệu USD, tăng 8,5% về khối lượng nhưng giảm 13,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Thị trường có giá trị giảm mạnh nhất so với cùng kỳ năm 2015 là thị trường Canada (giảm tới 53,7% về khối lượng và giảm 59,5% về giá trị).
Sắn và các sản phẩm từ sắn XK:
Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 7 năm 2016 ước đạt 206 nghìn tấn với giá trị đạt 61 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu sắn và các phẩm từ sắn 7 tháng đầu năm đạt 2,31 triệu tấn và 616 triệu USD, giảm 19% về khối lượng và giảm 28,3% về giá trị so cùng kỳ năm 2015. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu chính trong 6 tháng đầu năm 2016 chiếm tới 86,1% thị phần, giảm 23,5% về khối lượng và giảm 33% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Trong 6 tháng đầu năm 2016, giá trị nhập khẩu sắn và các sản phẩm sắn của Việt Nam hầu hết đều giảm ngoại trừ thị trường Malaysia có giá trị tăng (6,04%) so với cùng kỳ năm 2015.
Nguồn tin: http://channuoivietnam.com